TS. Ngô Thị Duyên: Tăng cường phát huy thế mạnh người phụ nữ trong lĩnh vực khoa học công nghệ

TS. Ngô Thị Duyên: Tăng cường phát huy thế mạnh người phụ nữ trong lĩnh vực khoa học công nghệ

25 năm gắn bó với Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội (VN-UET) trong vai trò cựu sinh viên và đến nay là giảng viên, nhà nghiên cứu, TS. Ngô Thị Duyên – nữ giảng viên Khoa Công nghệ thông tin đã có nhiều thành tích đóng góp trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, đặc biệt với mục tiêu hướng đến “công nghệ vị nhân sinh” không ít sản phẩm được ứng dụng vào thực tiễn.

Những năm qua TS. Ngô Thị Duyên đạt nhiều thành tích như giải thưởng “Nhà giáo ĐHQGHN năm 2023”; Bằng khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ĐHQGHN cho cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo; là 1 trong 5 thành viên nhóm nghiên cứu Trí tuệ Người máy, được công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQGHN năm 2024. Những chia sẻ của nữ giảng viên, nhà nghiên cứu Ngô Thị Duyên sẽ tiếp thêm động lực cho những cống hiến không ngừng nghỉ trong lĩnh vực khoa học công nghệ của nhiều nữ giảng viên, nhà nghiên cứu Trường ĐH Công nghệ.

Với hai vai trò là cựu sinh viên và hiện nay là giảng viên, nhà nghiên cứu UET, xuất phát từ “cơ duyên” nào đã khiến Tiến sĩ gắn bó với Trường trong suốt 25 năm qua? 

Từ những ngày đầu bước chân vào Trường Đại học Công nghệ khi đang là sinh viên, tôi đã cảm nhận được một môi trường học thuật năng động, nơi mà sự sáng tạo, đổi mới và nghiên cứu luôn được khuyến khích. Tôi may mắn được học tập và làm việc với những thầy cô tâm huyết, những người không chỉ truyền đạt tri thức mà còn truyền cảm hứng để tôi theo đuổi con đường nghiên cứu.

Bên cạnh đó, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, dưới sự dẫn dắt và truyền “lửa” đam mê của các thầy cô tôi đã có niềm yêu thích với nghề giáo. Tôi luôn cảm thấy hứng thú khi được chia sẻ kiến thức và hỗ trợ sinh viên trong quá trình học tập. Chính vì vậy, khi có cơ hội gắn bó với UET, tôi nhận ra rằng đây không chỉ là nơi tôi đã học tập mà còn là môi trường mà tôi có thể đóng góp nhiều hơn thông qua giảng dạy và nghiên cứu. Tôi mong muốn được là những thế hệ tiếp theo kế thừa lòng nhiệt huyết của các thầy cô để tiếp tục tiếp thêm niềm đam mê, hướng dẫn sinh viên và góp phần vào sự phát triển của Trường. Điều đó đã trở thành động lực để tôi gắn bó với UET đến tận bây giờ.

Khi lựa chọn lĩnh vực công nghệ, tôi hiểu rằng mình đang bước vào một ngành có sự chênh lệch giới tính rõ rệt, nơi nam giới chiếm số đông. Điều này có thể tạo ra những khó khăn nhất định, chẳng hạn như đôi khi phải đối diện với những định kiến vô hình về vai trò của phụ nữ trong ngành hay cảm giác phải cố gắng nhiều hơn để khẳng định năng lực của bản thân. Tuy nhiên, thay vì xem đó là rào cản, tôi luôn coi đó là động lực để bản thân tiếp tục học hỏi và vươn lên. Mặt khác, tôi cũng nhận ra rằng việc là một nữ nghiên cứu viên và giảng viên trong ngành công nghệ mang lại những lợi thế nhất định. Phụ nữ thường có sự tỉ mỉ, cẩn thận và kiên nhẫn, những điều này có thể trở thành lợi thế trong việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, tôi cũng may mắn khi được làm việc trong một môi trường mà sự hỗ trợ, hợp tác giữa các đồng nghiệp luôn được đề cao, giúp tôi có điều kiện phát triển sự nghiệp một cách thuận lợi hơn.

TS. Ngô Thị Duyên – đại diện các nhóm nghiên cứu mạnh Trí tuệ Người máy được vinh danh trong khuôn khổ Hội nghị tổng kết công tác năm 2024 và triển khai kế hoạch nhiệm vụ năm 2025

Để đạt được những thành tích trong giảng dạy, đào tạo hiện nay, Tiến sĩ đã có những “bí quyết” nào vượt qua “rào cản” trong lĩnh vực công nghệ mà phần đông là nam giới?

Tôi tin rằng để thành công trong giảng dạy và nghiên cứu, điều quan trọng nhất là sự đam mê, kiên trì và tinh thần học hỏi không ngừng. Trong giảng dạy, tôi luôn cố gắng tạo ra một môi trường học tập thân thiện, cởi mở, nơi sinh viên được khuyến khích đặt câu hỏi, thảo luận và suy nghĩ phản biện. Tôi cũng chú trọng đến việc kết hợp lý thuyết với thực tiễn, giúp sinh viên không chỉ hiểu sâu kiến thức mà còn biết cách áp dụng vào thực tế.

Trong nghiên cứu, tôi duy trì tinh thần không ngừng học hỏi, cập nhật kiến thức mới và tìm kiếm cơ hội hợp tác với các đồng nghiệp trong và ngoài nước, nhằm mở rộng phạm vi nghiên cứu và tạo ra những sản phẩm có giá trị ứng dụng cao.

Nghị quyết 57 -NQ/TW của Bộ Chính trị và những đổi mới trong quản trị giáo dục tại UET là một bước tiến quan trọng, tạo điều kiện để giảng viên nói chung và bản thân tôi nói riêng có thể đổi mới phương pháp giảng dạy. Tôi nhận thấy rằng sinh viên ngày nay có xu hướng học tập linh hoạt hơn, chủ động tìm kiếm và cập nhật kiến thức qua nhiều kênh khác nhau. Do đó, tôi cũng điều chỉnh phương pháp giảng dạy theo hướng khuyến khích sự chủ động của sinh viên, đồng thời ứng dụng công nghệ để tăng tính tương tác và hiệu quả trong giảng dạy.

Đồng thời, tôi cũng quan tâm đến việc kết hợp nghiên cứu với giảng dạy, giúp sinh viên không chỉ tiếp cận kiến thức lý thuyết mà còn được tham gia vào các dự án thực tế. Điều này giúp các em có cái nhìn thực tiễn hơn và nâng cao năng lực nghiên cứu ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường.

TS Ngô Thị Duyên (giữa) cùng nhóm nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Tương tác người – máy, Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. 

Với vai trò là người phụ nữ, chị có phương pháp nào để cân bằng giữa công việc và cuộc sống?

Việc cân bằng giữa công việc và cuộc sống cá nhân luôn là một thách thức, đặc biệt đối với phụ nữ. Tôi luôn cố gắng lên kế hoạch một cách khoa học, phân bổ thời gian hợp lý giữa công việc giảng dạy, nghiên cứu và gia đình. Bên cạnh đó, tôi cũng chú trọng đến việc dành thời gian cho bản thân thông qua các hoạt động thể chất và giải trí, nhằm tăng cường sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần. Những hoạt động này không chỉ giúp tôi giảm căng thẳng mà còn nâng cao hiệu suất làm việc. Tôi cũng học cách chấp nhận rằng không thể làm mọi thứ một cách hoàn hảo, mà cần ưu tiên những điều quan trọng nhất tại từng thời điểm.

Phụ nữ làm nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ cần có đam mê, sự kiên trì và không ngừng học hỏi. Đây là một lĩnh vực thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi người nghiên cứu phải luôn cập nhật và sẵn sàng thích nghi. Ngoài ra, sự tự tin và khả năng làm việc nhóm cũng rất quan trọng, giúp phụ nữ có thể hòa nhập và khẳng định mình trong môi trường phần đông là nam giới. Những kỷ niệm học tập và làm việc với các thầy cô tại UET cũng là điều mà tôi trân trọng. Chính sự hướng dẫn và động viên của họ đã giúp tôi kiên trì theo đuổi con đường nghiên cứu, dù có những lúc gặp thử thách.

Tôi đặc biệt tự hào khi là thành viên nhóm nghiên cứu phát triển hệ thống hỗ trợ giao tiếp BLife dành cho người bị tổn thương chức năng vận động. Hệ thống này giúp người bệnh sử dụng chuyển động mắt để giao tiếp, từ đó cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống của họ. Ngoài ra, tôi và nhóm nghiên cứu cũng đã và đang phát triển các sản phẩm công nghệ hỗ trợ trẻ em có nhu cầu đặc biệt như trẻ tự kỷ, trẻ gặp khó khăn trong đọc viết,… Đây là những dự án không chỉ mang giá trị khoa học mà còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Để truyền lửa đến những nữ giảng viên, nhà nghiên cứu tương lai và hiện tại đang cống hiến cho sự phát triển của Trường ĐH Công nghệ, Tiến sĩ có những lời nhắn nhủ như thế nào để các bạn giảng viên trẻ giữ được niềm say mê, động lực học tập và nghiên cứu không?

Tôi mong các em nữ sinh viên luôn giữ vững niềm đam mê và sự tự tin khi theo đuổi lĩnh vực công nghệ. Dù có thể gặp khó khăn, nhưng nếu kiên trì và không ngừng học hỏi, các em sẽ tìm thấy con đường riêng của mình. Ở buổi đầu giảng dạy ở mỗi lớp, ngoài trao đổi chung, tôi thường có những lời nhắn nhủ và động viên riêng tới các bạn sinh viên nữ, đặc biệt là các sinh viên nữ năm nhất và năm hai. Tôi mong rằng các em sẽ tiếp tục nỗ lực, không ngại khó khăn và luôn tin vào khả năng của bản thân. Quan trọng nhất, hãy tin rằng công nghệ không phải là lĩnh vực dành riêng cho ai, mà là nơi dành cho những người có đam mê và khát khao khám phá. Hãy mạnh dạn theo đuổi ước mơ và không ngừng học hỏi.

Kết quả nghiên cứu năm 2024-2025: Là tác giả/đồng tác giả của 04 bài báo đăng tại các tạp chí quốc tế thuộc WoS/Scopus (trong đó có 02 bài Q1/top 5%), 03 bằng độc quyền sáng chế (trong đó có 02 sáng chế quốc tế, 01 sáng chế trong nước), 07 bài báo tại kỷ yếu hội nghị quốc tế, 02 bài báo đăng ở tạp chí trong nước.

Với các hướng nghiên cứu trên, TS. Ngô Thị Duyên và nhóm nghiên cứu đã phát triển một số sản phẩm hữu ích. Cụ thể là, BLife (My Beautiful Life) – hệ thống hỗ trợ giao tiếp cho người bị tổn thương chức năng vận động (http://blife.ai); BioA – hệ thống hỗ trợ can thiệp rối loạn phổ tự kỷ bằng theo dõi chuyển động mắt; BioD – hệ thống hỗ trợ sàng lọc, chẩn đoán trẻ mắc chứng rối loạn đọc bằng theo dõi chuyển động mắt; VRA – ứng dụng thực tại ảo hỗ trợ trẻ tự kỷ học tập và phát triển kỹ năng; Vitage (Vietnam Heritage) – hệ thống sử dụng công nghệ thực tế ảo mô phỏng lại các vở diễn nghệ thuật truyền thống của Việt Nam…

(UET-News)

Bài viết báo chí:

VnExpress: Nhà khoa học Việt phát triển công nghệ sàng lọc trẻ mắc chứng khó đọc